Xã hội càng hiện đại thì những tinh hoa văn hóa truyền thống lại càng là thứ thôi thúc ta tìm về để khơi dậy những giá trị lịch sử, giá trị văn hóa độc đáo và gìn giữ cho thế hệ mai sau. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc ta, nghề truyền thống không chỉ mang đến những sản phẩm có giá trị sử dụng, giá trị kinh tế cao mà còn là những nét đẹp, là di sản văn hóa của dân tộc cần được bảo tồn và phát huy. Nghề truyền thống của người Thái ở Sơn La là một trong những giá trị như thế.
Người Thái thường sinh sống ở những bãi bồi của thung lũng các con sông, con suối, họ trở thành cư dân đầu tiên của văn minh trồng lúa nước trên lòng chảo màu mỡ ấy. Với sự ưu đãi của thiên nhiên và tính chăm chỉ của nhân dân Thái, nghề truyền thống đã trở thành nghệ thuật độc đáo, không chỉ đáp ứng nhu cầu vật chất của đời sống mà còn phản ánh một đời sống tinh thần vô cùng phong phú dệt bởi những đôi bàn tay khéo léo của đồng bào nơi đây.
Nghề dệt thổ cẩm – Tinh hoa của nghệ thuật trang trí
Trên nền tảng xã hội nông nghiệp như thế, các ngành nghề gần gũi, trước hết là nghề trồng bông dệt vải đã có điều kiện phát triển. Sự phân công lao động tự nhiên “gái dệt vải, trai đan chài” như hữu ý của tạo hóa đã để những người phụ nữ Thái từ dệt vải thường rồi sáng tạo ra những sản phẩm đẹp, có giá trị nghệ thuật. Sản phẩm thổ cẩm là một phần không thể thiếu trong đời sống vật chất và tinh thần của người Thái; không chỉ phục vụ nhu cầu sinh hoạt, mua bán, trao đổi trong sinh hoạt, lao động hàng ngày mà còn có mặt ở mọi hoạt động văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào Thái, là chuẩn mực của vẻ đẹp người phụ nữ Thái cũng như tinh hoa của nghệ thuật trang trí, hiện thân sự sung túc, no ấm, bình yên của bản làng.
Tục ngữ Thái có câu “Úp bàn tay nên hoa, ngửa bàn tay thành bông” (khoăm mứ pên lái, hai mứ pên boók) ngợi khen đôi bàn tay khéo léo tài hoa của người phụ nữ Thái. Từ đôi tay ấy đã tạo ra biết bao sản phẩm quý giá thiết thực cho đời sống. Đã từ lâu đời, những tấm thổ cẩm Thái nổi tiếng khắp vùng bởi nghệ thuật trang trí hoa văn. Trên những tấm thổ cấm ấy ta sẽ cảm nhận được màu xanh của cây cối, màu đỏ, trắng, hồng của hoa rừng và màu vàng rực rỡ của ánh nắng mặt trời. Kỹ thuật thêu dệt hoàn toàn thủ công nên rất chắc chắn, bền màu, đường nét tinh xảo, họa tiết sinh động. Nhìn vào những chiếc khăn piêu, mặt chăn/gối, hay váy, áo, địu, túi… sẽ hiện ra bức tranh thiên nhiên sống động, đa sắc màu và vô cùng phong phú. Hoa văn trang trí thổ cẩm thái được thêu dệt theo những mô típ chung nhưng lại cực kỳ phóng khoáng, đa dạng ở họa tiết, họa cảnh bởi nó được tái hiện bằng trí tưởng tượng phong phú và đôi bàn tay khéo léo, tài hoa của người phụ nữ Thái. Họ không làm thành những bức tranh của chốn “bồng lai tiên cảnh”, hay khu vườn thượng uyển mà khắc họa rất đỗi sinh động những cảnh vật gần gũi đời thường, là dòng suối mát, rau cỏ bợ (phắc ban), là đóa hoa rừng, hoa xoan, hoa ban, hoa bầu hoa bí, quả trám rừng, hay những hình tượng trưng “khỉ đuôi dài”, “con chuồn chuồn”, khau cút thuồng luồng… đi vào đường nét trang trí với những ý nghĩa riêng, mang dấu ấn tư duy của dân tộc Thái.
Trong “bức tranh thiên nhiên” đầy sống động của miền sơn cước, thiếu nữ Thái không dấu nổi cảm xúc qua những gam màu tươi sáng, đường nét mềm mại như chính tâm hồn trong sáng, lãng mạn chất chứa nhiều cung bậc tình cảm, còn người phụ nữ lớn tuổi sẽ gửi vào thổ cẩm những gam màu trầm, đường nét rắn rỏi, giản dị và sâu lắng như một sự trải nghiệm qua những bước thăng trầm của cuộc đời. Cuộc sống có khó khăn vất vả, người phụ nữ xưa có chịu nhiều thiệt thòi họ vẫn không ngừng thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống mà thả sức sáng tạo, thổi hồn cho những sợi vải… làm nên một nét duyên hài hòa cho người con gái Thái. Mỗi cây, mỗi vật, mỗi cảnh đều được những bàn tay nghệ thuật khoác lên một ý nghĩa riêng song nó đều biểu hiện một sức sống mãnh liệt, mơ ước chinh phục thiên nhiên, hướng tới sự hòa hợp và một cuộc sống ấm no, hạnh phúc của đồng bào dân tộc Thái. Bởi lẽ đó, sức sống của thổ cẩm Thái mạnh mẽ từ đường nét tinh tế, sắc sảo của truyền thống dân tộc đến tâm hồn lắng đọng và giàu xúc cảm của người sáng tạo nên nó.
Ngày nay, nền kinh tế hiện đại khiến những tục lệ xưa không còn bó buộc người phụ nữ Thái phải biết dệt vải, thêu thùa tạo ra các sản phẩm phục vụ gia đình và làm của hồi môn trước khi về nhà chồng; nhiều người trong số họ đã bước ra khỏi khung cửi và tham gia vào nhiều hoạt động kinh tế - xã hội khác… song điều này lại khiến chúng ta không khỏi ngậm ngùi bởi sự thiếu vắng một nét đẹp hiếm có của văn hóa dân tộc - một nghề thủ công khiến ta trân trọng và khâm phục không chỉ ở nghệ thuật trang trí mà còn ở sức mạnh tư duy trừu tượng của nhân dân lao động Thái.
Những “đôi bàn tay vàng” làm nên nghề gốm
Nghề làm gốm ở Sơn La đã có thời kỳ hưng thịnh và nổi tiếng khắp vùng với những sản phẩm mang tính kỹ thuật cao, đạt chất lượng tốt và mang tính mỹ thuật độc đáo như gốm Mường Chanh – Mai Sơn, Chiềng Cơi, Hua La – Thành Phố Sơn La, và Chiềng Ly – Thuận Châu. Đặc biệt, gốm Mường Chanh với màu gốm ủ bằng lá cây, chất đất làm từ đất sét mịn có pha cao lanh, được nung trong lò đốt củi các hoa văn khắc nổi hay chìm nhưng có độ nhẵn bóng, bền đẹp, sử dụng thuận tiện nên rất được ưa chuộng sản phẩm làm ra không chỉ để phục vụ đời sống sinh hoạt mà còn được đem trao đổi, buôn bán trong khu vực và đến cả những vùng miền xuôi.
Gốm Mường Chanh là loại hình nghề truyền thống đã có từ rất lâu đời, có thể coi như trung tâm gốm cổ của người Thái ở Sơn La. Theo tài liệu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam thì đây là loại gốm trơn có ưu điểm khó vỡ, ít rò rỉ, sản phẩm làm ra chủ yếu là các đồ gia dụng như vò, chum, vại, lọ, hũ, liễn với những hoa văn đơn giản gắn liền với đời sống của đồng bào dân tộc như sóng nước, hình con cá… Tất cả các công đoạn làm gốm đều là thủ công (giã đất, tạo hình) với công cụ rất thô sơ; lò nung gốm đốt bằng củi, không xây mà được đào sâu thành hầm hoặc đào vào sườn đồi nên gốm ra lò có độ chắc, bền cao và tạo được tiếng vang khắp vùng.
Nhớ lại thời kỳ gian khổ trong chiến tranh bị thực dân pháp đô hộ, song nhân dân Mường Chanh vẫn anh dũng đứng lên bảo vệ quê hương, vẫn say sưa lao động và sáng tạo những câu hát quê hương và nghề làm gốm của mình:
“…
Rồi ta bắt đầu đi tìm nơi đất ẩm và dẻo mịn
Chúng ta mới chặt cây làm cối giã
Giã đất sao cho thật nhuyễn ta mới đem nện xuống khiên xoay thật kỹ cho đều
Rồi ta nặn thành chum to, vại nhỏ, chậu tròn
Và cái tiếp cái nồi, chậu, om, vại…
…Sau đó cùng xếp chum vại, mọi thứ vào lò nung
Chum xếp thẳng ngay ngắn rồi bắt đầu nung cho cháy đều
Tới 3 đêm sau ta mới cho gốm ra lò lũ lượt
Ta mới lấy chum ra thử đựng nước, thấy không bị dò
Đó mới là chum loại tốt của dân bản mường…”
Tuy sản xuất với quy mô không lớn nhưng nghề gốm ở Sơn La thời kỳ đó vẫn luôn quy tụ được những “nghệ nhân tâm huyết”, ý thức giữ gìn nghề truyền thống cho thế hệ sau. Đó là một quy trình công phu và tổng thể, thể hiện ý chí và tinh thần lao động cần cù, sáng tạo của đồng bào dân tộc miền núi. Sản phẩm gốm của họ làm ra chắc, bền, rắn rỏi, nguyên liệu nguyên sơ, màu sắc, trang trí dung dị, mộc mạc như chính con người miền núi thật thà, chất phác, đôn hậu. Đây có thể coi là ý nghĩa nhân sinh, một nét văn hóa đặc trưng không thể trộn lẫn của gốm Mường Chanh.
Hiện nay, do những sản phẩm gốm ở miền xuôi cạnh tranh, gốm Mường Chanh không được cải tiến kỹ thuật, nguồn nguyên liệu làm nghề gốm bị thu hẹp nên rất nặng nhọc và gặp khó khăn. Song những nghệ nhân làm gốm với những “đôi tay vàng” vẫn đang trăn trở cho sự tồn vong của nghề gốm – một nét văn hóa độc đáo và đặc sắc, niềm tự hào của người dân mường Chanh nói riêng và người Thái Sơn La nói chung.
Nghề đan lát và tư duy nghệ thuật miền sơn cước
Sống với thiên nhiên núi rừng giàu tài nguyên về các loại mây, tre, nứa, giang… nghề đan lát đã sớm phát triển ở vùng mà dân tộc Thái sinh sống. Nếu như thổ cẩm đã mang đến cái hồn của người phụ nữ Thái thì nghề đan lát lại mang đến dấu ấn riêng độc đáo thể hiện tài năng của người con trai Thái. Trong mỗi sản phẩm đan lát của họ ta thấy được đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, mạnh mẽ, rắn rỏi nhưng cũng rất tinh tế, thấy được cả thiên nhiên hùng vĩ và cường tráng như chính người con trai của bản mường.
Sinh sống cùng với 12 dân tộc anh em khác trên mảnh đất quê hương Sơn La, sự giao thoa văn hóa cũng đã ảnh hưởng ít nhiều đến nghề đan lát, đặc biệt là ở sự pha trộn về kỹ thuật, kiểu dáng và nguyên liệu làm nên những sản phẩm nghề này. Tuy nhiên, những nghệ nhân Thái vẫn có những bước đi riêng trên hành trình bồi đắp những nét đẹp văn hóa của dân tộc mình. Những chiếc mâm bằng tre, bằng song mây, những chiếc nón đi nương, đồ đựng quần áo, ếp đựng xôi, hộp đựng kim chỉ… rất đỗi đời thường lại được những đôi bàn tay khéo léo nâng thành nghệ thuật. Người miền xuôi cũng đan lát bằng mây, tre tạo ra những sản phẩm có sức hút với du khách và thị trường thế giới, song những sản phẩm của người dân tộc vùng cao như người Thái lại đem đến những ấn tượng đặc biệt. Đặc biệt trước hết là họ đã sử dụng những nguyên liệu nguyên sinh khắc tạo các dáng hoa văn chất phác, mộc mạc, gần gũi với thiên nhiên nhưng mang tính kỹ xảo cao, lối kết hợp ken, quấn rất phức tạp và tinh vi đầy sức sáng tạo, sau đó là ở cái hồn, cái thần thái mang tính đặc trưng của người dân tộc vùng cao, họ sáng tạo là để phục vụ chính nhu cầu của đời sống, thể hiện đúng tư duy nghệ thuật và tâm hồn của dân tộc mình. Và với một cách tự nhiên nhất, những sản phẩm nghề đan lát đã để lại dấu ấn rất sâu đậm từ giá trị chân thực đến giá trị văn hóa trong xã hội hiện nay.
Sự ra đời và phát triển nghề thủ công trong cộng đồng người Thái là quy luật tất yếu của sự phát triển nền nông nghiệp lúa nước, kinh tế tự cung tự cấp. Đó không chỉ là những di sản văn hóa hiện vật mà còn là văn hóa tinh thần, thể hiện cho sự khéo léo và con mắt thẩm mỹ của cộng đồng dân tộc. Trải qua quá trình lao động, sáng tạo và sự nhào nặn, gọt giũa của phong tục, tập quán đã khiến nó trở thành một nét đẹp văn hóa mang tính đặc trưng của đồng bào Thái. Đó còn là kết quả của sự giao thoa văn hóa, một quá trình “gạn đục khơi trong” để chắt lọc tinh hoa làm nên giá trị đặc trưng cho dân tộc mình.
Nghề thủ công truyền thống của người Thái với nhiều ngành nghề khác nhau vừa có giá trị kinh tế vừa là một biểu hiện độc đáo của văn hóa cổ xưa ở nước ta. Sự phát triển của nó gắn liền với sự phát triển của dân tộc Thái nói chung và người Thái ở Sơn La nói riêng. Vượt qua thời gian có lúc thịnh vượng, lúc phải tự đấu tranh để sinh tồn song nó vẫn mang giá trị kinh tế, văn hóa, lịch sử sâu sắc và cần được trân trọng, gìn giữ; Để những bàn tay tài hoa, óc sáng tạo của những người nghệ nhân vẫn tồn tại mãi với núi rừng Tây Bắc, làm giàu đẹp thêm, phong phú thêm truyền thống văn hóa của người Việt Nam.
Sách tham khảo:
1. Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam.-H.: Khoa học xã hội.-24cm.T1: Tổng quan về nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam.-2012.-1167tr.
2. Hoa văn Thái/ Hoàng Lương.-H.:Văn hóa dân tộc,1988.-105tr.;19cm
3. Khảo tả nghề Thủ công làm gốm của dân tộc Thái xã Mường Tranh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La/Viện nghiên cứu văn học nghệ thuật.- Sơn La: Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Sơn La [Kn].-18tr.;30cm